Công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giáo dục nghề nghiệp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Như chúng ta đã biết, trong 10 năm qua, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự vào cuộc tích cực của các sở, ban ngành cấp tỉnh, UBND cấp huyện, thị xã, thành phố, công tác giáo dục nghề nghiệp đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức của người dân, doanh nghiệp về giáo dục nghề nghiệp có những chuyển biến tích cực, số lượng người đăng ký tham gia học nghề ngày càng tăng; tỷ lệ người học sau tốt nghiệp các trường cao đẳng, trung cấp, các trung tâm giáo dục nghề nghiệp có việc làm cao, thu nhập ổn định. Hệ thống các văn bản về giáo dục nghề nghiệp từ Trung ương đến địa phương từng bước được hoàn thiện; mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp của tỉnh đã và đang được sắp xếp lại; chủ trương xã hội hóa về giáo dục nghề nghiệp được phát triển, đa dạng về loại hình và trình độ đào tạo; nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã thực sự coi trọng chất lượng đào tạo, từng bước phấn đấu trở thành cơ sở đào tạo chất lượng cao, gắn với nhu cầu của doanh nghiệp, góp phần quan trọng vào nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực của thị trường lao động trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế số dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và xu thế chuyển dịch nhân lực trên thị trường lao động trong nước và quốc tế, lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp cần phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thanh Hóa.

Từ năm 2013 đến nay, tỉnh Thanh Hoá đã triển khai đồng bộ các nội dung về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết số 29-NQ/TW, trong đó có lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Vì thế, việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực từng bước được nâng lên, vị thế đào tạo nghề nghiệp ngày càng được khẳng định và đạt được những kết quả nổi bật:

Một là, mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp được rà soát, sắp xếp theo hướng đảm bảo tinh gọn, cơ cấu hợp lý và phát triển ổn định : Cuối năm 2015, toàn tỉnh có 101 cơ sở đào tạo nghề nghiệp, gồm 41 cơ sở giáo dục nghề nghiệp (GDNN): (31 công lập, 10 tư thục) và 60 cơ sở khác có hoạt động GDNN. Đến nay, trên địa bàn tỉnh còn  66 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, gồm 11 trường cao đẳng (6 công lập: 4  trường công lập trực thuộc tỉnh, 02 trường của Bộ đóng trên địa bàn; 5 tư thục), 15 trường trung cấp (09 công lập: 08 trường trực thuộc tỉnh; 01 trường của Bộ; 06 tư thục), 31 trung tâm giáo dục nghề nghiệp (trong đó có 24 trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên công lập cấp huyện đổi tên, sáp nhập theo Thông tư liên tịch số 39/2015/TTLT-BLĐTBH-BGDĐT-BNV ngày 19/10/2015; 07 trung tâm giáo dục nghề nghiệp tư thục) và 9 cơ sở khác có đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp.

Hai là, các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo được chú trọng và từng bước đáp ứng yêu cầu đào tạo: Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã chủ động phối hợp với doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình đào tạo, tổ chức hội nghị mời các doanh nghiệp đánh giá chất lượng lao động do nhà trường đào tạo đang làm việc tại doanh nghiệp; đồng thời mời chuyên gia, cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp tham gia xây dựng chương trình đào tạo. Bên cạnh đó chất lượng đội ngũ nhà giáo các cơ sở GDNN ngày càng được nâng cao, cơ bản đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm. Tổng số nhà giáo GDNN của 60 cơ sở GDNN hiện nay là 1.801 người, trong đó tiến sỹ 21 người (1,17%); thạc sỹ 372 người (20,66%); đại học 894 người (49,64%), cao đẳng 176 người (9,77%); trung cấp và trình độ khác 338 người (18,76%). Giai đoạn 2015-2019, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho 605 giáo viên, người dạy nghề về nghiệp vụ sư phạm, kỹ năng dạy học, phương pháp giảng dạy tích hợp, kiến thức kinh doanh và khởi sự doanh nghiệp. Phối hợp với Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho 200 cán bộ quản lý. Mặt khác, các cơ sở GDNN ngày càng được tăng cường để đáp ứng yêu cầu đào tạo. Tổng diện tích đất được giao sử dụng của các trường cao đẳng, trung cấp và trung tâm GDNN là 1.505.923 m2. Diện tích phòng học lý thuyết là 72.842m2; phòng/xưởng thực hành là 191.452 m2, cơ bản đáp ứng yêu cầu đào tạo theo quy định tại Nghị định số 143/2016/NĐ-CP ngày 14/10/2016 và Nghị định 140/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2018 của Chính phủ.

Ba là, các ngành, nghề trọng điểm được lựa chọn và đầu tư đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực chất lượng cao của tỉnh: Căn cứ năng lực đào tạo, kết quả tuyển sinh đào tạo và giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên sau tốt nghiệp của các cơ sở GDNN trên địa bàn và nhu cầu nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao của các doanh nghiệp, tỉnh đã lựa chọn 11 trường cao đẳng, trung cấp công lập báo cáo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phê duyệt đầu tư 16 ngành, nghề trọng điểm (01 nghề cấp độ quốc tế, 03 nghề cấp độ Asean và 15 nghề cấp độ quốc gia) giai đoạn 2016 - 2020 và định hướng đến năm 2025, gồm các nghề thuộc nhóm công nghệ, kỹ thuật và dịch vụ có nhu cầu tuyển dụng cao như nghề Hàn, Công nghệ ô tô, Điện công nghiệp, Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa không khí, May thời trang, Công nghệ thông tin (ứng dụng phần mềm), Kỹ thuật chế biến món ăn, Nghiệp vụ khách sạn nhà hàng, Dược, Điều dưỡng ...

Bốn là, gắn kết hoạt động giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp ngày càng được tăng cường: Hầu hết các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đã liên kết với doanh nghiệp trong đào tạo, giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên sau tốt nghiệp. Bằng nhiều hình thức liên kết, phối hợp như phối hợp trong việc xây dựng chương trình đào tạo; sử dụng thiết bị của doanh nghiệp để dạy thực hành; hỗ trợ giáo viên là cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, thợ lành nghề... tham gia giảng dạy tại trường, hướng dẫn học sinh, sinh viên thực tập tại doanh nghiệp; đào tạo theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp.... các trường đã tạo được mối quan hệ chặt chẽ với doanh nghiệp, điều đó giúp trường vừa nâng cao được chất lượng đào tạo, đồng thời giải quyết việc làm cho học viên sau khi tốt nghiệp. Ở chiều ngược lại, nhiều doanh nghiệp cũng chủ động đặt hàng và đồng hành với nhà trường ngay trong chương trình đào tạo từ lý thuyết tới thực hành để sát với yêu cầu thực tiễn về công nghệ.

Năm là, các cơ sở GDNN đã triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý dạy và học; thực hiện số hóa, mô phỏng các chương trình đào tạo mang lại hiệu quả thiết thực nhằm tăng cường công tác quản lý bằng tốt nghiệp trong giáo dục nghề nghiệp, công khai minh bạch thông tin về việc cấp bằng tốt nghiệp, hạn chế tình trạng gian lận sử dụng bằng tốt nghiệp giả và tiêu cực trong việc cấp bằng tốt nghiệp nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của người học và người sử dụng lao động, các trường cao đẳng, trung cấp đang triển khai cập nhật bằng tốt nghiệp cao đẳng, trung cấp từ ngày 01/01/2017 đến nay vào hệ thống “Trang thông tin tra cứu văn bằng” của Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp. 

Sáu là, chất lượng giáo dục nghề nghiệp ngày càng được nâng cao, cơ bản đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp: Chất lượng và hiệu quả GDNN có những chuyển biến rõ rệt; kỹ năng nghề của người tốt nghiệp các cơ sở GDNN đã được nâng lên. Ở nhiều nghề trọng điểm, kỹ năng nghề của lao động trong tỉnh đã đạt chuẩn quốc gia và khu vực. Giai đoạn 2013 - 2022, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và các doanh nghiệp trong tỉnh tuyển sinh đào tạo, kèm cặp truyền nghề khoảng 760 nghìn người. Lao động qua đào tạo nghề nghiệp tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế và đảm nhận được các vị trí công việc phức tạp; trên 80% người học có việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số nghề và một số cơ sở GDNN tỷ lệ này đạt gần 100%. Nhìn chung, chất lượng lao động qua đào tạo nghề nghiệp cơ bản đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Tỷ lệ lao động có việc làm sau đào tạo trình độ cao đẳng đạt trên 90%, trình độ trung cấp đạt trên 85% và trình độ sơ cấp đạt trên 75%. Nhiều ngành, nghề học sinh, sinh viên ra trường có việc làm 100% như: nghề Hàn; nghề May thời trang; nghề Điện công nghiệp v.v...

Bên cạnh những kết quả đạt được, lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp còn nhiều khó khăn, đó là: Mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, nhiều trường đào tạo cùng một ngành, nghề; phân bố các trường giữa các vùng, địa phương chưa hợp lý, chủ yếu tập trung ở thành phố Thanh Hóa, còn nhiều cơ sở giáo dục nghề nghiệp chưa phát huy được vai trò đào tạo nghề cho lực lượng lao động tại chỗ; tỷ lệ tuyển sinh trình độ cao đẳng, trung cấp còn thấp do một bộ phận người dân vẫn còn tư tưởng trọng bằng cấp, tâm lý muốn con em vào đại học không muốn học nghề. Việc thực hiện phân luồng học sinh sau tốt nghiệp trung học cơ sở chưa đạt theo yêu cầu đề ra. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập hoạt động chủ yếu vẫn dựa vào ngân sách Nhà nước cấp, chưa phát huy được tính năng động, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tổ chức bộ máy, sử dụng cán bộ giáo viên; chế độ thu chi tài chính trong hoạt động đào tạo. Công tác xã hội hóa giáo dục nghề nghiệp còn chậm. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 17 cơ sở giáo dục nghề nghiệp tư thục (chiếm 27% tổng số cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn).  Bên cạnh đó, việc nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan chức năng về GDNN ở một số địa phương chưa đầy đủ, thậm chí còn coi nhẹ; một bộ phận xã hội chưa nhận thức đúng về vai trò quan trọng của GDNN trong đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; tâm lý coi trọng bằng cấp vẫn còn nặng nề; việc định hướng nghề nghiệp, phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS, THPT chưa đạt mục tiêu đề ra. Mặt khác, Quản lý nhà nước về đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực có mặt còn hạn chế từ khâu dự báo, xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo đến tổ chức thực hiện; đổi mới tư duy về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực theo nguyên tắc thị trường còn chậm v.v…

Trong giai đoạn tiếp theo, để phát triển GDNN theo hướng mở, đa dạng, linh hoạt với nhiều phương thức và trình độ đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và nâng cao kỹ năng nghề nghiệp suốt đời của người lao động để đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm, có chính sách đầu tư phát triển GDNN đối với vùng miền núi của tỉnh, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hỗ trợ các đối tượng chính sách, đối tượng dễ bị tổn thương, tạo cơ hội cho mọi người lao động học nghề, lập nghiệp, góp phần xóa đói, giảm nghèo thực hiện công bằng xã hội; gắn kết chặt chẽ GDNN với nhu cầu của thị trường lao động và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; lấy sự chấp nhận của thị trường lao động là thước đo của hiệu quả GDNN; tập trung đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao (trung cấp, cao đẳng) và chú trọng đào tạo thường xuyên, đào tạo cập nhật, đào tạo lại và đào tạo tại doanh nghiệp để phù hợp với với yêu cầu của doanh nghiệp nhằm duy trì việc làm bền vững cho người lao động và nhu cầu sử dụng nhân lực của doanh nghiệp đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động GDNN v.v... cần tập trung một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

Một là,  tiếp tục chỉ đạo quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương; Kết luận số 51-KL/TW ngày 30/5/1019 của Ban Bí thư về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT và các văn bản chỉ đạo của Trung ương, của Tỉnh ủy về đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT. Tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.

Hai là, tiếp tục rà soát, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, hình thành mạng lưới có đủ năng lực đào tạo nhân lực các cấp trình độ trong giáo dục nghề nghiệp với quy mô, cơ cấu hợp lý về ngành, nghề, trình độ đào tạo, gắn đào tạo với nhu cầu của xã hội; khuyến khích mở rộng đào tạo các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.

Ba là, xây dựng và phát triển các trường đào tạo nghề trọng điểm đạt chuẩn quốc gia, khu vực ASEAN, quốc tế, trong đó ưu tiên phát triển một số trường đào tạo nghề chất lượng cao như Trường Cao đẳng nghề Công nghiệp, Trường Cao đẳng nghề Nghi Sơn… để đào tạo nhân lực chất lượng cao hội nhập thị trường lao động trong nước, khu vực và quốc tế.

 Bốn là, tiếp tục thực hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục.Tăng cường vận động, xúc tiến đầu tư để thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước vào lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp; áp dụng các mô hình đào tạo theo cơ chế chia sẻ kinh phí đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp.

 Năm là, chuẩn hóa các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục nghề nghiệp: Đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo từ ngân sách nhà nước, tài trợ, viện trợ nước ngoài và huy động từ các nguồn xã hội hóa đảm bảo đạt chuẩn theo quy định. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý đạt chuẩn về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề, nghiệp vụ sư phạm, trình độ tin học, ngoại ngữ và các kỹ năng mềm. Xây dựng chương trình đào tạo theo chuẩn đầu ra đáp ứng yêu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp.

Sáu là, tăng cường gắn kết cơ sở GDNN với doanh nghiệp, tạo việc làm nâng cao thu nhập cho người lao động đã qua đào tạo nghề: Xây dựng cơ chế, chính sách gắn kết giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, góp phần đào tạo nghề cho người lao động gắn với giải quyết việc làm một cách bền vững, g viên; nghiên cứu khoa học, thực tập sinh viên

 Bảy là, triển khai thực hiện có hiệu quả Kế hoạch số 158/KH-UBND ngày 11/7/2019 của UBND tỉnh về thưc hiện Quyết định 522/QĐ-TTg ngày 14/5/2019 của Chính phủ phê duyệt Đề án Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018-2025, Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 05/12/2011 của Bộ Chính trị về phân luồng học sinh sau trung học cơ sở.

 Tám là, nâng cao chất lượng dự báo báo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn thông tin thị trường lao động, về nhu cầu nguồn nhân lực, nhu cầu việc làm và nhu cầu đào tạo theo lĩnh vực, ngành, nghề, cấp trình độ đào tạo, hình thành cơ sở dữ liệu về cung cầu lao động để các cơ sở GDNN xây dựng kế hoạch đào tạo phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp, tiếp tục phát triển và hoàn thiện các hình thức thông tin thị trường lao động để định hướng lựa chọn ngành nghề đào tạo và tìm kiếm việc làm./.

Vũ Thị Hương, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội